Cá Koi là loài thủy sinh rất quý, cá KOI có hình dáng đẹp, màu sắc sặc sỡ, tư thế bơi lội tao nhã, quý phái, đồng thời cũng là loài vật nuôi trong bể cá có giá trị làm cảnh rất cao. Các bạn nuôi cá koi nên nắm rõ các bệnh thường gặp của cá koi để không bị bỡ ngỡ khi cá koi bị bệnh.
1. Bệnh xuất huyết
Còn được gọi là bệnh xuất huyết, đây là một bệnh phổ biến của cá KOI. Nó chủ yếu xảy ra vào mùa hè và mùa thu, phổ biến và có hại, và có thể gây ra cái chết cho một số lượng lớn cá koi với các thông số kỹ thuật khác nhau.
Triệu chứng nhận biết: Các tia vây và vảy của cá bệnh thường tương đối hoàn chỉnh, xung quanh hốc mắt, nắp mang, miệng và gốc vây đều có xung huyết, nếu lột da có thể nhìn thấy các cơ. xung huyết tại chỗ, có chỗ tím tái. Trường hợp nặng, toàn bộ cơ bắp đều có màu đỏ như máu; ruột, thận, gan, lá lách cũng bị sung huyết, trong khoang bụng có nhiều cổ trướng; mang có màu đỏ nhạt hoặc nhợt nhạt khi mở nắp mang, cá bệnh bơi lội chậm chạp, kém ăn.
Nguyên nhân gây bệnh: Do Reovirus gây ra. Khi chất lượng nước nuôi suy giảm, lượng oxy hòa tan trong nước giảm, tiêu thụ oxy tổng nitơ và chất hữu cơ tăng, sức đề kháng của cá koi giảm, virus lợi dụng điểm yếu để xâm nhập. koi, gây bệnh cho cá koi.
Dịch bệnh và tác hại: Bệnh xuất huyết phổ biến từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 8, nhiệt độ nước thích hợp là 25°C đến 30°C. Khi mật độ cá koi trong thủy vực nuôi quá cao và môi trường nước xấu đi, cá koi dễ bị bệnh. Bệnh chủ yếu gây hại cho cá con, chiều dài thân nhỏ nhất chỉ 2,9 cm. Bệnh xuất huyết là một bệnh cá cấp tính có thể gây ra cái chết của một số lượng lớn cá koi.
Phương pháp phòng ngừa:
(1) Tăng cường chăn nuôi và quản lý, duy trì chất lượng nước tốt, cố gắng nuôi càng ít vào mùa hè và mùa thu, tạo môi trường nước tốt sẽ có tác dụng phòng bệnh nhất định.
(2) Rắc bột tẩy vào nước chăn nuôi trong mùa rộ để nồng độ thuốc trong nước đạt 1㎎/lít để phòng bệnh.
(3) Ngâm cơ thể cá với erythromycin 4-10㎎/lít trong 15 phút có tác dụng chữa bệnh nhất định đối với cá bệnh.
(4) Tắm thuốc nước muối 3-5% trong 10-15 giây hoặc sử dụng thuốc tắm clo hóa 1ppm để khử trùng toàn bộ hồ.
2. Bệnh đỏ da
Dù là cá chép con hay cá trắm trưởng thành, bệnh xảy ra quanh năm, nhất là sau khi đánh bắt và vận chuyển, sau khi trú đông ở miền Bắc, bệnh đỏ da do vi khuẩn dễ bùng phát nhất.
Triệu chứng nhận biết : cục bộ hoặc diện rộng trên bề mặt cơ thể cá bệnh bị sung huyết và viêm, vảy bong ra, đặc biệt ở hai bên và bụng cá; gốc các tia vây như vây lưng và vây đuôi xung huyết, đầu các tia vây bị thối hoặc nhiễm saprolegnia; hàm trên, hàm dưới và nắp mang cũng bị xung huyết và viêm nhiễm; cá bệnh thường kèm theo triệu chứng viêm ruột và thối mang.
Nguyên nhân gây bệnh: Do Pseudomonas fluorescens gây ra, nguồn lây bệnh là thủy vực, dụng cụ hoặc cá mang vi khuẩn bị ô nhiễm bởi Pseudomonas fluorescens. Khi bề mặt cơ thể cá còn nguyên vẹn thì vi khuẩn gây bệnh không thể xâm nhập, một khi cơ thể cá bị tổn thương do dụng cụ làm hỏng, tê cóng hoặc ký sinh trùng ký sinh trên bề mặt cơ thể thì rất dễ bị vi khuẩn gây bệnh xâm nhiễm và mắc bệnh.
Mức độ phổ biến và tác hại: Bệnh đỏ da cá koi có thể phát sinh quanh năm, cao điểm nhất là khi nhiệt độ nước 25-30°C. Thông thường cơ thể cá sau khi bị thương sẽ dễ mắc bệnh này, mùa xuân và mùa thu khi nhiệt độ nước thấp hơn 15°C cũng là mùa phổ biến của bệnh này, đồng thời nhiễm bệnh saprolegniasis ảnh hưởng đến giá trị làm cảnh của cá koi.
Phương pháp phòng ngừa:
(1) Trong quá trình cho ăn và quản lý, cần thận trọng khi vận hành để tránh gây thương tích cho cá càng nhiều càng tốt.
(2) Khi phòng ngừa và điều trị bệnh, hồ bơi lớn ngoài trời có thể rắc 1㎎/lít bột tẩy trắng khắp hồ bơi.
(3) Sử dụng 10㎎/L thuốc furan để ngâm cá.
3. Bệnh đóng vảy
Còn được gọi là bệnh đóng vảy thông và bệnh đóng vảy đứng , đây là bệnh chủ yếu phổ biến ở ao nuôi cá nước lặng. Nó chủ yếu gây hại cho cá KOI và các loài cá họ cá chép khác, và có thể gây ra cái chết của một số lượng lớn cá bệnh sau khi phát bệnh.
Triệu chứng nhận biết: bề mặt cá bệnh sần sùi, một số hoặc toàn bộ vảy dựng đứng như quả tùng, gốc vảy phù nề, bên trong có dịch tiết trong suốt hoặc có máu, dịch từ gốc vảy chảy ra khi cá bị bệnh. Một số cá bị bệnh có kèm theo các triệu chứng như xung huyết gốc vây, xung huyết nhẹ trên da, lồi mắt;
Nguyên nhân gây bệnh: do nhiễm Pseudomonas punctatus. Vi khuẩn này là vi khuẩn gây bệnh cơ hội, lây nhiễm qua da khi chất lượng nước bẩn và cơ thể cá bị tổn thương. Một số người nghĩ rằng bệnh là do nhiễm vi khuẩn, nhưng một nguyên nhân quan trọng khác là cho ăn không đúng cách, gây ra những bất thường trong hệ thống tuần hoàn và chức năng tiêu hóa và hấp thụ của cá.
Dịch bệnh và tác hại: Mùa dịch bệnh là khi nhiệt độ nước thấp vào cuối mùa thu và mùa xuân hàng năm, nhiệt độ nước 17-22 ℃ là thời kỳ cao điểm của dịch bệnh, đôi khi sẽ xảy ra vào cuối mùa đông. Nó chủ yếu gây hại cho cá chép KOI lớn hơn, sau khi trú đông, sức đề kháng của cá chép KOI yếu đi và rất có thể mắc bệnh này.
Phương pháp phòng ngừa:
(1) Tăng cường vỗ béo cá chép KOI trước khi trú đông và cho chúng ăn hợp lý. Khi nhiệt độ nước thấp hơn 20°C, nên cho ăn thức ăn có nhiệt độ nước thấp hoặc thức ăn mầm, đồng thời ngừng cho ăn thức ăn chăn nuôi có hàm lượng protein cao để giảm thiểu gánh nặng cho hệ tiêu hóa của cá chép KOI để chúng có thể sống sót qua mùa đông một cách an toàn . Sau khi nhiệt độ nước tăng vào đầu mùa xuân, hãy cho cá ăn các loại mồi sống như bọ chét, giun nước để tăng cường sức đề kháng cho cá và phòng ngừa hiệu quả dịch bệnh phát sinh.
(2) Đối với cá KOI có vảy dọc một phần, bạn có thể vắt mủ từ vảy dọc theo cách thủ công và làm khô vùng bị ảnh hưởng, khử trùng vết thương bằng thuốc tím nồng độ cao, sau đó tiêm thuốc tiêm amikacin, liều lượng được kiểm soát tại 0,1 ml trên 10 cm chiều dài cá.
(3) Ngâm xác cá với dung dịch muối 2% trong 5-15 phút, thời gian cụ thể tùy theo sức đề kháng của cá. Người dân không được bỏ đi khi đang ngâm, khi cá lật nghiêng phải vớt ngay cho vào thau nước sạch. Mỗi ngày ngâm 1 lần từ 3 đến 5 lần.
Đây là những bệnh ngoài da và cách trị bệnh của cá Koi. Hãy theo dõi Cá Koi Hoàng Phi để biết thêm nhiều kiến thức về việc xây dựng hồ cá Koi hoặc việc nuôi dưỡng cá Koi.